Hội nghị sinh lý thực vật toàn quốc lần thứ III – Cơ hội cho tôi nói lời cám ơn đến Quý Thầy/Cô và các đồng nghiệp cao niên đã dành trọn đời mình cho chuyên ngành Sinh lý thực vật

GS.TS. Dương Tấn Nhựt chụp ảnh với GS.TS. Lê Kim Ngọc và GS.TS. Trần Thanh Vân tại nhà riêng của Cô và Thầy ở ngoại ô Paris năm 1997

Giáo sư Tiến sĩ K. Tran Thanh Van (Lê Kim Ngọc)

Nhân dịp Hội nghị sinh lý thực vật toàn quốc lần thứ III tổ chức tại Đà Lạt, tôi mong ước được lần lượt bày tỏ lòng biết ơn đến những ân nhân mà thiếu họ có lẽ tôi sẽ không được như ngày hôm nay. Có thể hiểu những chia sẻ của tôi ở đây mới chỉ diễn tả một phần nhỏ những hiểu biết và cảm nhận của tôi về những nhà khoa học vô cùng đáng kính cả về tâm và tầm của họ.

Người đầu tiên mà tôi nói đến là Giáo sư, Tiến sĩ K. Tran Thanh Van (Giáo sư Lê Kim Ngọc, phu nhân của Giáo sư Trần Thanh Vân).

GS.TS. Lê Kim Ngọc sinh năm 1934 tại huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, Cô du học tại Pháp từ năm 1957 và trở thành nhà khoa học nổi tiếng khi còn rất trẻ. Tôi có cơ may được gặp Cô và Cô là một trong những ân nhân của cuộc đời tôi.

Tôi được biết đến Cô khi còn là sinh viên năm 2 Trường Đại học Đà Lạt. Đó là năm 1989 khi tôi bắt đầu nhận đề tài thực hiện khóa luận tốt nghiệp đại học. Tôi có tìm hiểu và được Cô giáo dạy tôi khi đó là TS. Hà Ngọc Mai giải thích GS.TS. Lê Kim Ngọc là một Việt Kiều ở Pháp, có nhiều đóng góp khoa học về lĩnh vực sinh lý thực vật tại Pháp. Thời gian qua đi, tôi đã tìm kiếm tài liệu và được đọc nhiều công bố khoa học của Cô về Kỹ thuật nuôi cấy lớp mỏng tế bào (Thin Cell Layer – TCL) – một kỹ thuật nổi danh trong giới chuyên môn trên toàn thế giới. Cuộc sống cứ như một câu chuyện cổ tích, tôi có cơ duyên được gặp Cô một cách tình cờ khi Cô và Phu Quân (GS.TS. Trần Thanh Vân) có dịp làm việc tại Trường Đại học Đà Lạt (1993). Thời gian của lần gặp đầu tiên đó rất ngắn: phần vì Cô và Thầy bận kín cho công tác tổ chức hội nghị, phần do bản thân tôi ngày đó cũng chưa biết trao đổi gì nhiều, chỉ biết ngưỡng mộ và kính nể những thành quả mà Cô đạt được, với công bố khoa học vào năm 1973 trên tạp chí Nature với tựa đề “In vitro of de novo flower, bud, root and callus differentiation from excised epidermal tissue”. Đó có thể là một trong những thành tựu vĩ đại mà cả thế hệ của Cô và có lẽ những thế hệ sau cũng khó có bất kỳ ai có thể đạt được. Có thể hiểu thành tựu đó của cô như một kỳ tích và luôn là ước mơ của các nhà khoa học Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung. Rồi thời gian trôi qua, tôi có cơ hội gặp Cô nhiều hơn mỗi năm và ngày càng ngưỡng mộ sức làm việc phi thường của Cô; trong đó có những hoạt động chứa đầy chất nhân văn và ý nghĩa đối với xã hội như hoạt động vực dậy các làng trẻ SOS thông qua quá trình hỗ trợ các em học sinh Trung học trong cả nước, phát triển học bổng Odon Vallet mà Cô cùng người bạn Pháp gây dựng cùng với nhiều việc khác nữa để giúp đỡ cho nền khoa học nước nhà. Cũng chính nhờ cơ hội tổ chức hội nghị quốc tế do Cô và Thầy Trần Thanh Vân tổ chức vào năm 1995 tại TP. HCM mà tôi có dịp gặp gỡ các nhà Khoa học nước ngoài và thế là cơ hội cho việc Du học Nhật bản của tôi đã mở ra khi tôi có dịp gặp Giáo sư Michio Tanaka tại hội thảo này. Sau đó, tôi nhận học bổng của chính phủ Nhật Bản vào năm 1996 sang Nhật Bản học Thạc sĩ và Tiến Sĩ tại Trường Đại Học Kagawa. Khi ở Nhật Bản học tập và làm việc, tôi tiếp tục nhận được sự giúp đỡ về mặt kiến thức thông qua email và xa hơn là Thầy tôi tạo điều kiện cho tôi sang Pháp để gặp Cô và trực tiếp trao đổi, tôi nhớ mãi là vào mùa thu năm 1997, tôi và Thầy tôi sang Pháp, cái nôi văn minh của thế giới, tôi rất bồn chồn đến mất ngủ, điều đáng ngạc nhiên khi gặp Cô là sự giản dị từ nơi ở đến cách làm việc, tôi được nói chuyện và được bố trí chỗ ăn ở, cũng may thay thời điểm đó có Anh Bùi Văn Lệ (PGS.TS. Bùi Văn Lệ) lúc đó cũng còn đang làm luận án Tiến sĩ với Cô nên nỗi lo toan gần như biến mất. Tôi được các học trò, đồng nghiệp của Cô giúp đỡ và chỉ dẫn về kỹ thuật nuôi cấy lớp mỏng tế bào, tôi tranh thủ làm việc hăng say trong một thời gian ngắn 3 tuần tại Pháp. Ngoài thời gian làm việc tại phòng thí nghiệm, tôi còn được Cô chỉ dẫn về phương pháp làm việc và cách viết một công trình khoa học quốc tế (1997), tôi có chuẩn bị một bản thảo về kết quả làm việc tại Việt Nam và đem ra hỏi ý kiến, được Cô ân cần giúp đỡ, tôi giống như người đi ra từ bóng tối với khối lượng kiến thức đồ sộ của Cô, phần thì tiếng Anh chưa đáp ứng, phần thì kiến thức chưa đủ… Tôi gặp muôn vàn khó khăn trong bài báo quốc tế đầu tiên này. Quay trở lại Nhật Bản, tiếp tục học tập và nhận ra nhiều điều hơn với những trải nghiệm nho nhỏ tại nước Pháp. Bài báo mà Cô đã giúp đỡ dỡ dang tôi tiếp tục thảo luận với bạn bè là sinh viên quốc tế và đã dần hoàn thiện và cuối cùng điều gì đến cũng đã đến, bài báo Micropropagation of lily (Lilium longiflorum) via in vitro stem node and pseudo-bulblet culture đã đăng trên tạp chí Plant Cell Reports (đến nay đã có 421 lượt trích dẫn), một tạp chí nổi tiếng thời bấy giờ và cả hiện nay. Khi trải qua gần 2 năm cho việc chuẩn bị công trình khoa học này và được viết kết quả những nghiên cứu mình làm tại Việt Nam, tôi thấy hạnh phúc vô bờ bến. Một nhà khoa học Việt Nam trẻ tuổi với một thế giới rộng lớn hiện ra trước mắt, tôi cảm thấy mình nhỏ bé và lao vào khoa học như một con thiêu thân. Những ngày tháng tại Nhật là những ngày dài, vui buồn có đủ với 18 tiếng đồng hồ mỗi ngày hoặc hơn, tôi làm như chưa bao giờ được làm và nguyện ước cho mình sự trở về thật vinh quang. Tôi đã gặp nhiều may mắn và lần nữa có cơ hội quay lại Pháp cũng nhờ sự giúp đỡ của Giáo sư Michio Tanaka, Cô và Thầy Trần Thanh Vân để tham dự hội nghị quốc tế về Khoa học Cây trồng tại Bỉ năm 1998 (XXV International Horticultural Congress (IHC), Brussels: ISHS, 1998). Tại đó, tôi đã có cơ hội trình bày Poster về nghiên cứu In vitro growth of strawberry plantlets cultured under superbright red and blue light emitting diodes (LEDs), đây là báo cáo khoa học đầu tiên trên thế giới trong việc ứng dụng ánh sáng LED vào nuôi cấy mô và tế bào thực vật trên đối tượng cây dâu tây (1998). Tôi cảm thấy vô cùng tự hào khi được góp phần giới thiệu những bước tiến mới mẻ trong khoa học, mặc dù lúc đó tôi chỉ đang học bậc Thạc sĩ. Trong việc di chuyển bằng tàu nhanh giữa Paris và Brussel thì rất thuận lợi nên tôi có dịp gặp Cô trao đổi nhiều điều. Đó là những buổi nói chuyện về chuyên môn, nói chuyện về sự đổi thay của đất nước, nói chuyện về sự kỳ vọng và hy vọng cho một nền khoa học đang đổi mới… Tôi học ở Cô và Thầy lòng yêu nước mãnh liệt, một ý chí sắt đá, sự thủy chung với dân tộc vô bờ bến, sự kiên định với trái tim hướng về Việt Nam thân yêu của mình… Những điều đó với tôi đã thấm đẫm tình yêu thương giữa con người với con người. Sau hội nghị, tôi trở về Nhật tiếp tục học tập, tôi bắt đầu làm 2 việc vừa làm nghiên cứu cho việc tốt nghiệp với đề tài đèn LED, vừa làm các hướng nghiên cứu khác dưới sự cho phép của Thầy tôi; tôi được kết hợp với các Thầy ở Trường Đại học Kagawa để làm nhiều nghiên cứu khác vì mong muốn sau khi trở lại Việt Nam tôi e là không có điều kiện để thực hiện. Nhiều kết quả tốt, nhiều ý tưởng mới trên thế giới đã ra đời trên nước Nhật Bản; nhìn lại thời gian không còn lại bao lâu, tôi lại nghĩ ra một điều mạo muội mà đến bây giờ tôi nghĩ mình là một người liều lĩnh. Tôi đã lập đề cương để viết một cuốn sách về Kỹ thuật nuôi cấy lớp mỏng tế bào và đợi cơ hội thuận lợi để xuất bản, khó khăn chồng chất khó khăn, tôi tự tạo áp lực cho chính mình. Tôi tự nhủ một người Việt Nam, không ai biết tới có thể làm điều kỳ diệu này hay không, sau khi làm đề cương và nhờ sự giúp đỡ của bạn bè cùng học tập tại Nhật Bản, bước đầu tiên là tôi đã chuẩn bị hoàn tất đề cương của cuốn sách này. Sau này GS.TS. K. Trần Thanh Vân (Lê Kim Ngọc) cũng rất bất ngờ về câu chuyện liều lĩnh này của tôi. Một cơ hội quý báu đã đến vào năm 2000, khi tôi vinh dự được tham dự và báo cáo tại một hội nghị quốc tế lớn tại Mỹ – World Congress on In Vitro Biology. Bài báo cáo của tôi có tiêu đề Direct Somatic Embryogenesis Through Pseudo-Bulbet Thin Cell Layer of Lilium longiflorum. Nhân dịp này, tôi mang theo đề cương bản thảo cuốn sách của mình và trình bày với Giáo sư Oluf Gamborg – người nổi tiếng với việc phát triển môi trường nuôi cấy mô B5 (1968). Với sự thấu hiểu và lòng quý mến, Giáo sư Gamborg đã nhận thấy nơi tôi niềm đam mê khoa học mãnh liệt. Nhờ uy tín của Ông, tôi đã được kết nối với những nhà xuất bản hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này. Đó thực sự là một bước ngoặt mới, đầy ý nghĩa trong hành trình khoa học của tôi.

Bài báo cáo của GS.TS. Dương Tấn Nhựt tại Hội nghị World Congress on In Vitro Biology năm 2000 tại San Diego, Mỹ

Sau khi trở về Nhật Bản tôi tiếp tục chỉnh sửa đề cương và chuẩn bị nộp cho nhà xuất bản Kluwer Academic Publishers (nay là Springer), tôi thật sự bỡ ngỡ vì đã làm một câu chuyện mà một người nổi tiếng như Giáo sư của tôi cũng chưa làm được. Tôi nộp đề cương cuốn sách có tên “Thin Cell Layer Culture System: Regeneration and Transformation Applications” do tôi là chủ biên và đợi chờ, hạnh phúc vỡ òa khi nhà xuất bản đã cho phản biện và đồng ý vì cuốn sách tựa như thế này chưa từng được viết trên thế giới, như vậy bước một đã thành công với một bản hợp đồng gần 10 trang đã được ký kết giữa cá nhân tôi và giám đốc nhà xuất bản Kluwer Academic Publishers; hạnh phúc quá vì không biết chia sẻ cùng ai và giờ tôi chỉ biết im lặng để vượt quá thử thách lớn lao này. Sau này Thầy tôi (Giáo sư Michio Tanaka) có nói trong cuộc đời làm giáo sư của ông, ông chưa bao giờ thấy một công việc kỳ vĩ này đối với một sinh viên đang làm luận án tiến sĩ, tôi hạnh phúc khi được nghe điều đó từ ông khi nói với các giáo sư Nhật Bản với một thái độ trân trọng. Cũng tại Nhật Bản, tôi đã nhờ các bạn du học sinh chỉnh sửa cả ngàn tài liệu tham khảo theo quy định cho cuốn sách 530 trang của tôi, cứ cuối tuần các bạn ấy lại tề tựu tại nhà tôi và mỗi người mỗi việc giúp hiệu đính tài liệu tham khảo cuốn sách của tôi. Cuốn sách có 14 chương, tôi trân trọng mời Cô Trần Thanh Vân viết cho tôi chương mở đầu, tôi đợi chờ mong ngóng hơn 6 tháng cho một chương sách của Cô vì Cô có rất ít thời gian rảnh vì bận rộn với nhiều công việc bên Pháp. Tôi gọi điện thoại bàn và Fax, email và bằng nhiều hình thức nhắc Cô cố gắng viết giúp viết chương này, nhưng đáp lại Cô nói sẽ cố gắng, tôi hiểu Cô bận nên kiên nhẫn chờ đợi. Tôi nhớ như in thỉnh thoảng tiếng Fax của điện thoại bàn có tín hiệu (te tít te tít te …) thì y như rằng những trang giấy viết tay Cô gửi lại in ra từ 1 đến 2 trang, chữ Cô viết cũng không dễ đọc nên tôi cũng mất nhiều thời gian đánh lại bản Word và gửi lại cho Cô và cứ thế mất cả 6 tháng mới có thể hoàn thiện chương sách. 13 chương còn lại tôi hì hục làm trong 2 năm để hoàn thiện, vừa làm vừa học nhưng đâu đó tìm thấy sự hạnh phúc khôn tả từ nhiệm vụ bất khả thi này. Trước khi tốt nghiệp Tiến sĩ, tôi đã gửi bản thảo 530 trang này cho nhà xuất bản bên Hà Lan như trút đi một gánh nặng đầy vinh quang này. Tạm biệt nước Nhật Bản để trở về Việt Nam và hòa nhập sau khoảng thời gian xa cách 6 năm. Cuốn sách đã được nhà xuất bản phản hồi và đang trong giai đoạn sửa bản thảo. Trong thư nhà xuất bản gửi tôi có đoạn “cảm ơn Tiến sĩ đã gửi một bản thảo cẩn thận này cho chúng tôi, nếu như các nhà khoa học khác mà làm như tiến sĩ thì chúng tôi sẽ bớt cực, cảm ơn về sự hợp tác”. Tôi hạnh phúc và chỉ biết an ủi mình, một nhà khoa học Việt Nam phải biết làm gì cho người ta tôn trọng mình. Tiến trình cuốn sách đã đến hồi kết, nhà xuất bản gửi lại cho tôi xem lại lần cuối, tôi hiệu đính và gửi lại cho nhà xuất bản. Năm 2003, cuốn sách đã xuất bản sau 3 năm rưỡi miệt mài và đầy ấp áp lực.

Bên cạnh thực hiện viết cuốn sách này, tôi rất may mắn được Cô giới thiệu và ban tổ chức mời tôi sang Đài Loan làm chủ tọa một tiểu ban tại Hội nghị International Symposium on Tropical and Subtropical Fruits. Hội nghị quy tụ 500 nhà khoa học quốc tế và tôi cảm thấy vô cùng vinh dự khi đảm nhiệm vai trò này. Tại sự kiện, tôi có cơ hội gặp gỡ Giáo sư Toshio Murashige, tác giả của môi trường nuôi cấy nổi tiếng MS (Murashige và Skoog, 1962). Đồng thời, tôi cũng vinh dự nhận được Giải thưởng Nhà khoa học trẻ có báo cáo Xuất sắc, với bài trình bày mang tựa đề Growth of banana plantlets cultured in vitro under red and blue light-emitting diode (LED) irradiation source.

Hạnh phúc vỡ òa, thông tin cuốn sách đã được xuất bản đã được mọi người và trong có Giáo sư Michio Tanaka, Giáo sư K. Trần Thanh Vân, Giáo sư Oluf Gamborg chúc mừng. Thời khắc này tôi không bao giờ quên, khi 6 cuốn sách được gửi từ nhà xuất bản Kluwer Academic Publishers cho tôi làm quà, người đầu tiên mà tôi tặng chính là Giáo sư K. Trần Thanh Vân. Sau này trở lại Việt Nam, tôi và Cô gặp nhau nhiều lần và luôn trao đổi về chuyên môn mà chúng tôi đeo đuổi là chuyên ngành Sinh lý thực vật, sự giúp đỡ của tôi và sự hỗ trợ của Cô, chúng tôi đã có nhiều sinh viên tài năng trong lĩnh vực này.

Cuốn sách “Hệ thống nuôi cấy lớp mỏng tế bào: tái sinh và ứng dụng chuyển gen”

Hội nghị sinh lý thực vật toàn quốc lần thứ III, tôi đã gửi thư mời và thông báo cho Cô hay về thông tin của Hội nghị, phần thì Cô sức khỏe yếu, phần thì Cô không ở Việt Nam lúc diễn ra Hội nghị nên Cô chỉ gửi lời thăm hỏi và chúc Hội nghị thành công. Nhưng thật bất ngờ, vào đúng ngày khai mạc hội nghị Cô đã tiến cử Tiến sĩ Trần Thanh Sơn, Phó giám đốc trung tâm ICISE đến dự với món quà cho tôi là 50 cái bánh ít đặc sản Qui Nhơn.

Nhóm nghiên cứu của GS.TS. Dương Tấn Nhựt tham dự Hội nghị sinh học quốc tế năm 2020 tại Trung tâm quốc tế khoa học và giáo dục liên ngành (ICISE)
Lễ thắp đuốc khoa học tại trung tâm ICISE nhằm chào mừng Năm Quốc Tế khoa học cơ bản vì sự phát triển bền vững lần đầu tiên trên thế giới năm 2022
GS.TS. Dương Tấn Nhựt và PGS.TS. Hoàng Thị Kim Hồng chụp ảnh cùng Thầy và Cô Trần Thanh Vân tại Hội nghị sinh học quốc tế 2023 tổ chức tại ICISE
Ảnh chụp GS.TS. Dương Tấn Nhựt và Vợ Chồng GS.TS. Trần Thanh Vân tại khách sạn La Sapinette ở Đà Lạt năm 2023
Hội nghị quốc tế về Advances in Plant Biology from Genome Editing to Sustainable Development tổ chức tại ICISE năm 2024. GS.TS. Dương Tấn Nhựt và GS.TS. David Jackson (CSHL, Mỹ – đứng bên trái GS.TS. Dương Tấn Nhựt) cùng đứng ra tổ chức Hội nghị này với tư cách là 2 người học trò xuất sắc của GS.TS. Lê Kim Ngọc.

Thay lời kết, xin cảm ơn Cô và Thầy đã đồng hành với tôi trong một quãng đường đầy chông gai, có lúc tôi tưởng chừng bỏ cuộc. Cô và Thầy Trần Thanh Vân là ân nhân trong cuộc đời nghiên cứu của tôi. Cầu chúc Thầy và Cô dồi dào sức khỏe và hạnh phúc.

GS.TS. Dương Tấn Nhựt