(Kỷ niệm và tri ân nhân dịp 18 năm ngày mất của Giáo sư – 28 tháng 5 năm 2007)
Mười tám năm sau khi qua đời, di sản của Giáo sư Oluf L. Gamborg (viết tắt là GS. Gamborg) vẫn tiếp tục truyền cảm hứng mạnh mẽ, đặc biệt đối với những người mà cuộc đời Ông đã định hình sâu sắc. Hơn cả một nhà hóa sinh lỗi lạc và nhà sáng tạo ra môi trường nuôi cấy B5 nổi tiếng (Gamborg OL, Miller RA, Ojima K, 1968. Nutrient requirements of suspensions cultures of soybean root cells. Plant Physiology, 44: 513–519) được hàng triệu nhà khoa học trên thế giới sử dụng cho nghiên cứu về công nghệ tế bào thực vật, GS. Gamborg còn là một ngọn đèn dẫn lối và một người Thầy với tấm lòng rộng mở phi thường. Nhưng ngoài những khám phá đột phá, chính sự hào phóng và cách tiếp cận khoa học đầy rộng mở của GS. Gamborg mới thực sự khiến Ông trở nên đặc biệt. GS. Gamborg sinh năm 1924 tại Đan Mạch, một nhà hóa sinh học nổi tiếng vào những thập niên 60-80 của thế kỷ XX. Ông có nhiều công trình khoa học được công bố trên những tạp chí khoa học hàng đầu của thế giới như Nature (03 công trình khoa học) và Science (01 công trình khoa học). GS. Gamborg và GS.TS. Klaus Halbrock là người đồng sáng lập tạp chí ‘‘Plant Cell Reports’’ và cống hiến cho tạp chí và cộng đồng sinh học tế bào thực vật trong hơn 20 năm. Tất cả các đồng nghiệp làm việc với GS. Gamborg đều ngưỡng mộ và ghi nhận Ông là nhà khoa học và nhà quản lý xuất sắc mà đặc biệt là khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp bằng sự khéo léo và kỹ năng của mình.
GS. Gamborg đến Canada vào năm 1949 và Ông lấy bằng Cử nhân Khoa học Nông nghiệp năm 1956, bằng Thạc sĩ Hóa sinh Thực vật năm 1958 từ Đại học Alberta. Sau đó, GS. Gamborg theo đuổi bằng Tiến sĩ Hóa sinh tại Đại học Saskatchewan và hoàn thành vào năm 1962. Sau khi nhận học vị tiến sĩ, Ông làm việc tại Viện Công nghệ sinh học thực vật (PBI) tại Saskatoon (Viện nghiên cứu về công nghệ sinh học thực vật đầu tiên trên thế giới), Canada – nơi tôi đã vinh dự được GS.TS. Chendanda C. Chinnappa (Đại học Calgary, Chủ tịch Hội thực vật học Canada) đưa đến tham quan trong thời gian tôi làm việc tại Canada. Sau khi có những đóng góp lớn cho nền khoa học thế giới, Ông vinh dự trở thành thành viên của Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Canada.
Với sự uyên bác của mình trong lĩnh vực nuôi cấy mô, tế bào thực vật, GS. Gamborg được Chính phủ của rất nhiều quốc gia mời và tham khảo ý kiến cho quá trình nghiên cứu cải thiện sản xuất lương thực. Năm 2005, GS. Gamborg được nhận Giải thưởng “Thành tựu trọn đời” tại Hội nghị thế giới được tổ chức tại thành phố Baltimore, Maryland. Giải thưởng “Thành tựu trọn đời” là giải thưởng cao quý nhất về công nghệ sinh học thực vật trên thế giới do Hiệp hội Sinh học trong ống nghiệm trao tặng (https://sivb.org/InVitroReport/issue-39-3-july-september-2005/lifetime-achievement-award-39-3/). Giải thưởng này được trao cho các nhà khoa học tiên phong hoặc có ảnh hưởng lớn đến khoa học và kỹ thuật nuôi cấy tế bào. Đó là những nhà khoa học đã cống hiến sự nghiệp của mình cho nghiên cứu hoặc giảng dạy mẫu mực; được Hội đồng SIVB (Society for In Vitro Biology) bầu chọn thông qua bỏ phiếu từ danh sách đề cử và giới thiệu của Chủ tịch Hội (GS.TS. Amy A. Wang).
GS. Gamborg bắt đầu nghiên cứu về nuôi cấy tế bào thực vật từ những năm 60 và đã đưa ra nhiều phát hiện quan trọng liên quan đến nhu cầu dinh dưỡng cho các môi trường nuôi cấy nhân tạo. Trong suốt sự nghiệp của mình, GS. Gamborg đã làm việc hết mình để đưa nuôi cấy mô thực vật trở thành một công cụ nông nghiệp khả thi và thiết yếu ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là các nước của Châu Á. Thông qua các chuyến công tác và hoạt động đào tạo của GS. Gamborg, công nghệ nuôi cấy mô thực vật đã được phát triển trên phạm vi rộng và ngày càng nhanh. Do đó, các kỹ thuật nuôi cấy mô (như nhân giống vô tính các kiểu gen ưu tú và lưu trữ nguồn gen trong ống nghiệm) đã và đang đóng vai trò quan trọng trong nền nông nghiệp của nhiều quốc gia. Cho đến nay, môi trường nuôi cấy B5 (Gamborg et al. 1968) do Ông nghiên cứu và công bố trong một bài báo khoa học vẫn là một trong những môi trường được sử dụng rộng rãi nhất cho nuôi cấy mô, cơ quan và tế bào thực vật. Vào những năm đầu thập kỷ 70 của Thế kỷ XX, Ông bắt đầu nghiên cứu về protoplast (tế bào trần) và phát hiện ra giá trị của polyethyleneglycol (PEG) trong số những chất khác như một chất hỗ trợ cho sự dung hợp protoplast. Phương pháp này hiện vẫn được sử dụng rộng rãi nhằm tạo ra các giống cây trồng mới. Công trình của Ông vào những năm 60 và 70 đã giúp Phòng thí nghiệm khu vực Prairie, Saskatoon (nay là Viện công nghệ sinh học thực vật) của Hội đồng nghiên cứu quốc gia Canada trở thành một Trung tâm nghiên cứu uy tín trên toàn thế giới về công nghệ nuôi cấy thực vật trong ống nghiệm.
GS. Gamborg là chủ tịch Hội nuôi cấy mô tế bào thực vật phụ trách nghiên cứu về thiết lập “môi trường nuôi cấy nhân tạo” vào năm 1972. Hội này bao gồm những giáo sư hàng đầu như GS.TS. Toshio Murashige và GS.TS. Indra K. Vasil. Công trình khoa học về “Môi trường nuôi cấy mô thực vật” đã được xuất bản trên tạp chí In Vitro vào năm 1976 và vẫn được trích dẫn rộng rãi cho đến ngày nay. Hiệp hội quốc tế về nuôi cấy mô thực vật có trụ sở chính tại Canada (1974 – 1978), hoạt động chủ yếu của Hội là nhờ GS. Gamborg, người đảm nhiệm với vai trò Chủ tịch và đồng thời là Trưởng ban tổ chức Hội nghị quốc tế lần thứ 4 vào năm 1978. Cùng năm đó, GS. Gamborg đã tổ chức và chỉ đạo Khóa đào tạo quốc tế UNESCO đầu tiên về Di truyền tế bào thực vật trong Nông nghiệp tại Brazil. Các bài thực hành trong phòng thí nghiệm, v.v. được GS. Gamborg tập hợp lại thành cuốn sách có tựa “Nuôi cấy mô thực vật – Phương pháp và ứng dụng trong Nông nghiệp” và được nhà xuất bản bởi nhà in Academic Press năm 1981, cuốn sách được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực khoa học này. Trước đó, GS. Gamborg đã là đồng biên tập của cuốn sách “hướng dẫn phòng thí nghiệm” đầu tiên về nuôi cấy mô thực vật vào năm 1975 và gần đây hơn, Ông đã đồng biên tập với GS.TS. Greg C. Phillips của cuốn sách “Nuôi cấy tế bào, mô và cơ quan thực vật, phương pháp cơ bản” vào năm 1995. Hoạt động này của GS. Gamborg cho thấy rằng các kỹ thuật nuôi cấy mô thực vật được phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. Ngoài ra, GS. Gamborg cũng là đồng tổ chức Hội nghị nghiên cứu Gordon lần thứ nhất về “Nuôi cấy tế bào và mô thực vật” vào năm 1973.
Một trong những dấu mốc đáng nhớ đối với sự nghiệp của GS. Gamborg là từ khi Ông đến Mỹ – Giai đoạn thứ hai trong sự nghiệp của GS. Gamborg – nơi Ông là một chuyên gia cấp cao, giám đốc nghiên cứu, chuyên gia tư vấn khoa học cho các công ty công nghệ sinh học khác nhau ở California từ năm 1979 đến năm 1985 và là nơi Ông khai thác công nghệ in vitro cho các mục đích ứng dụng. Sau đó, Ông chuyển đến Đại học bang Colorado (1985-1991) làm phó giám đốc và điều phối viên nghiên cứu Dự án “Nuôi cấy mô thực vật cho cây trồng” của Cơ quan viện trợ phát triển quốc tế Mỹ. Điều này liên quan đến nhiều lĩnh vực nghiên cứu trong ống nghiệm về khả năng chịu mặn. Ông cũng tổ chức các khóa đào tạo, kết nối mạng lưới và tư vấn tại một số nước đang phát triển. Một số kết quả nghiên cứu trong những năm Ông làm việc tại Mỹ đã được công bố trên các tạp chí nổi tiếng thế giới nhưng quan trọng hơn cả là việc thành lập các hoạt động nghiên cứu dựa trên kỹ thuật nuôi cấy mô ở một số quốc gia. Từ năm 1991 đến năm 1998, Ông là cố vấn toàn thời gian cho các công ty tư nhân và có các dự án lớn ở Indonesia và Việt Nam. GS. Gamborg từng làm việc với một số công ty về hương liệu tại tỉnh Quảng Nam (cây quế) và được PGS.TS. Nguyễn Văn Uyển đồng hành vào thời điểm đó. PGS. Uyển thường đưa Ông lên thành phố Đà Lạt để tham quan các cơ sở nuôi cấy mô, tế bào thực vật và có ghé cũng như lưu trú tại nhà khách của Viện (năm 1993 đến năm 1995). Chính vì vậy, tôi có dịp nói chuyện và biết về Ông rất nhiều điều và được biết rằng Ông đang làm việc cho các tổ chức lớn trên thế giới về hỗ trợ các kỹ thuật nuôi cấy mô, tế bào thực vật cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.




Như vậy, từ những thành tựu trên trong hơn 40 năm, GS. Gamborg là người xứng đáng nhất nhận Giải thưởng “Thành tựu trọn đời” của hội SIVB.
Trong bài tổng quan trên tạp chí In Vitro Cellular & Developmental Biology – Plantnăm 2002 (tập 38, trang 84 – 92) viết về chủ đề các cột mốc Công nghệ sinh học thực vật và nuôi cấy mô thực vật “Plant Tissue Culture. Biotechnology. Milestones”, tôi rất vinh dự được GS. Gamborg đưa vào danh sách các nhà khoa học có đóng góp kỹ thuật đáng ghi nhận (kỹ thuật nuôi cấy lớp mỏng tế bào) cùng GS.TS. K. Tran Thanh Van khi cuốn sách của tôi vừa được xuất bản, điều này chắc là ít nhà khoa học được biết vì bài tổng quan này đã được viết hơn 23 năm.
Tôi có cơ hội gặp gỡ GS. Gamborg vào năm 1993 tại Hội nghị quốc tế “Adapted Propagation Techniques for Commercial Crops of the Tropics” do tổ chức International Foundation for Science (IFS) tài trợ từ ngày 7 – 12 tháng 02 năm 1993 được tổ chức tại khách sạn Majestic, thành phố Hồ Chí Minh. Đây là Hội nghị quốc tế đầu tiên mà tôi có dịp tham gia. Đến nay đã gần 33 năm, nhìn lại tôi thấy đây là một cơ hội làm thay đổi cuộc đời mình, ở đó tôi được gặp những nhà khoa học nổi tiếng như GS. Gamborg và GS.TS. Sinclir H. Mantell (Anh) cùng nhiều nhà khoa học Việt Nam nổi tiếng lúc bấy giờ. Tôi chợt nhận ra một điều gì đó quá mức về kiến thức đối với tôi vì tất cả các báo cáo tại hội nghị này đều bằng tiếng Anh. Đến giờ phút này tôi vẫn thấy rằng mình rất may mắn khi được hỏi chuyện và nói lên những hiểu biết nhỏ nhoi của mình mỗi ngày trong Hội nghị với các Giáo sư nổi tiếng này. Trái ngược với sự ngại ngùng, e dè tôi nhận lại sự trao đổi ân cần và tìm cách giải thích cho những câu hỏi rất đơn giản của tôi; đặc biệt là GS. Gamborg đã chia sẻ những vấn đề cơ bản về lĩnh vực nuôi cấy mô, tế bào thực vật.
Hội nghị kết thúc nhưng may mắn cho tôi là vẫn giữ liên lạc với GS. Gamborg bằng thư từ và được Ông dành thời gian trả lời những thắc mắc và những yêu cầu giúp đỡ về mặt hỗ trợ tài liệu khoa học cho tôi. Ngày đó việc trao đổi thư từ liên lạc từ Việt Nam sang Mỹ phải mất hàng tháng trời và đôi khi các thư từ liên lạc cũng cần được kiểm định chặt chẽ trước khi phát cho người nhận. Do vậy, một lá thư được gửi đến tôi là gửi gắm cả sự chờ đợi và hy vọng. Hàng tháng tôi nhận thư và tài liệu của GS. Gamborg đều đặn, lúc này Ông cũng đã có tuổi nên cũng đã gửi cho tôi hầu hết những sách vở, tài liệu của Ông và đối với tôi đây là những tài liệu vô giá vào thời bấy giờ vì internet chưa được phát triển. Năm 1995, tôi có gửi một hồ sơ xin học bổng Nghiên cứu khoa học tại Trung tâm quốc tế Nông nghiệp Okinawa (Nhật Bản). Tôi có nhờ GS. Gamborg viết cho tôi một thư giới thiệu và Ông sẵn sàng viết một thư giới thiệu với những lời nhận xét “có cánh” dành cho tôi, mặc dù lúc đó tôi chỉ là một cử nhân ngành Sinh học. Hồ sơ này đã được gửi đến Trung tâm Nông nghiệp ở Okinawa và tôi được biết TS. Nguyễn Tiến Thịnh (Viện Nghiên cứu Hạt nhân) lúc đó đang làm việc tại Trung tâm này; qua lời kể của TS. Nguyễn Tiến Thịnh, tôi mới biết Ban lãnh đạo của Trung tâm này đánh giá tôi rất cao qua thư giới thiệu của một người nổi tiếng là GS. Gamborg, TS. Nguyễn Tiến Thịnh có nói với tôi rằng rất ngạc nhiên về sự giới thiệu “nhiệt tình” này của GS. Gamborg dành cho tôi. Qua lời giới thiệu này tôi đã được nhận học bổng và chuẩn bị làm hồ sơ xin visa để vào Nhật Bản.
Cũng cùng thời điểm đó, tôi lại gặp GS.TS. Michio Tanaka tại Hội nghị quốc tế do Vợ Chồng GS.TS. Trần Thanh Vân và GS.TS. Lê Kim Ngọc tổ chức tại khách sạn Majestic, thành phố Hồ Chí Minh (1995). Tại Hội nghị này, GS.TS. Michio Tanaka cũng hứa là sẽ xin học bổng chính phủ Nhật Bản (Monbusho) để giúp tôi có cơ hội nghiên cứu tại phòng thí nghiệm của Ông. Đúng như lời hứa tôi cũng đã được nhận học bổng sau Đại học của Đại học Kagawa. Vì hai học bổng đến cùng một lúc mà học bổng của Đại học Kagawa là có đào tạo bằng cấp nên tôi buộc phải gửi thư đến Trung tâm quốc tế Nông nghiệp Okinawa (Nhật Bản) để từ chối lời mời của họ. Cầm trên tay hai thư mời từ hai tổ chức uy tín của Nhật Bản, tôi cảm thấy vô cùng may mắn, nhưng cũng đứng trước thử thách lớn là phải đưa ra sự lựa chọn. Cuối cùng, tôi quyết định sẽ bắt đầu hành trình xuất ngoại đầu tiên trong đời tại Đại học Kagawa (Nhật Bản). Trong suốt thời gian học tập tại Nhật Bản tôi vẫn liên lạc thường xuyên với GS. Gamborg để lắng nghe những ý kiến tư vấn về việc học, viết báo và nhiều vấn đề khác.

Năm 2000, tôi có đăng ký tham dự một Hội nghị quốc tế World Congress on In Vitro Biology được tổ chức tại thành phố San Diego (Mỹ), trong suốt thời gian đó tôi thường xuyên liên lạc với GS. Gamborg về Hội nghị này vì Ông là một thành viên trong Ban tổ chức; công trình khoa học của tôi đã vinh dự được chọn báo cáo tại phiên toàn thể (oral presentation). Khi tôi được nhận thông tin từ Ban tổ chức là sẽ được báo cáo tại Hội nghị, tôi thật sự lo lắng và bồn chồn, tôi chuẩn bị cho bài thuyết trình của mình rất cẩn thận và nhiều lần trao đổi bài thuyết trình này với GS. Gamborg về mẩu chuyện mà tôi dự định trình bày. Đọc và học nội dung báo cáo nhưng tôi vẫn thiếu tự tin về vốn tiếng Anh khiêm tốn của mình, cứ lo lắng nếu như có ai đó trong Hội nghị hỏi mình những câu hỏi liên quan đến nội dung thì mình sẽ trả lời ra sao. Do vậy, tôi cứ tự chuẩn bị những câu hỏi cho riêng mình và chuẩn bị tài liệu cho những câu hỏi đó,…. Những công việc không hề đơn giản như tôi nghĩ, khi tôi gửi hồ sơ đến Đại sứ quán Mỹ tại thành phố Osaka (Nhật Bản) để xin visa vào Mỹ thì tôi đã bị từ chối cấp visa với lý do là họ rất ngại tôi sẽ trốn và ở lại nước Mỹ. Tôi đã rất tuyệt vọng vì những điều lo toan trước mà tôi đã chuẩn bị nay đã trở thành vô nghĩa. Trong khoảnh khắc tuyệt vọng đó, một tia hy vọng lóe lên: GS. Gamborg có thể sẽ giúp được mình và ngay lập tức, tôi gọi điện thoại cho GS. Gamborg và trình bày sự việc. GS. Gamborg nói rằng tôi gửi cho Ông thư mời của Ban tổ chức Hội nghị để Ông làm việc với Đại sứ quán Mỹ tại Osaka. Rất may mắn, sau khi Ông gửi thư đến Đại sứ quán Mỹ tại Osaka với nội dung mà mãi sau này tôi mới được biết nội dung trong thư Ông đã viết: “Ông Dương Tấn Nhựt được mời báo cáo tại Hội nghị World Congress on In Vitro Biology năm 2000, bất luận vì lý do gì tôi yêu cầu Đại sứ quán cấp visa cho Ông Nhựt được đến Mỹ để báo cáo vì đây là một Hội nghị khoa học ….”, sau đó Ông báo với tôi là gửi lại hồ sơ cho Đại sứ quán Mỹ tại Osaka và tôi đã gửi hồ sơ ngay lập tức vào ngày hôm đó và hồi hộp chờ đợi kết quả. Vài ngày sau, tôi nhận được thư từ Đại sứ quán Mỹ và thật bất ngờ họ đã đồng ý cấp visa cho tôi. Tôi đã rất ngỡ ngàng một lần nữa GS. Gamborg đã làm một điều kỳ diệu mà thiết nghĩ không ai có thể làm được điều đó. Sự can thiệp kiên quyết của Ông với Đại sứ quán Mỹ, một minh chứng cho sự hỗ trợ vững chắc của Ông, đã biến điều tưởng chừng như một trở ngại không thể vượt qua thành một lời khẳng định mạnh mẽ về niềm tin của Ông dành cho tôi. Thế là câu chuyện chuẩn bị cho việc tham dự Hội nghị lại càng trở nên gấp rút hơn. Tôi đã đặt vé máy bay, khách sạn (nơi mà GS. Gamborg đề xuất) và chuẩn bị cho ngày lên đường. Khác với câu chuyện chuẩn bị từ Việt Nam đến Nhật Bản, lần này là một sự lo lắng về một nơi đến mà giữa họ và Việt Nam đã có những vết thương trong chiến tranh, tôi cứ nghĩ quẫn và lo sợ …. Nhưng việc gì đến thì cũng đã đến, tôi đã đến thành phố San Diego (Mỹ) trước một ngày tổ chức Hội nghị và chờ đợi GS. Gamborg đến.


Chỉ một ngày xa cách mà đối với tôi, việc chờ đợi GS. Gamborg tựa như chờ đợi người thân trong gia đình; tôi đi đi lại lại trong sảnh khách sạn, liên tục hỏi lễ tân xem ông đã đến chưa. Mỗi câu trả lời ‘chưa’ lại làm tôi thêm lo lắng, một cảm giác tương tự như chờ đợi một người thân yêu. Sau vài lần có câu trả lời như thế và cuối cùng vào buổi chiều ngày hôm sau, GS. Gamborg đã đến, tôi đã mừng không tả được vì được gặp lại Ông sau 7 năm (từ năm 1993 đến năm 2000) và Ông cũng nhận ra tôi ngay lập tức; sau đó, ai nấy về phòng nghỉ ngơi và hẹn nhau ăn tối. Sau khi ăn tối về tôi có nhã ý nhờ Ông nghe tôi báo cáo để Ông góp ý và chỉnh sửa bài báo cáo vào ngày mai của tôi. Vì Ông đã trải quả một quãng đường rất dài (1.500 km) để đến nơi tổ chức Hội nghị nên trông Ông có vẻ đã thấm mệt, nhưng Ông vẫn vui vẻ nhận lời. Với một chiếc máy tính xách tay màn hình nhỏ nhưng Ông vẫn chăm chú theo dõi tôi báo cáo và góp ý cho tôi chân thành về cách phát âm, những câu chưa rõ nghĩa,… một cách cẩn thận, tôi thật hạnh phúc và thêm tự tin cho câu chuyện báo cáo vào ngày mai. Khi Hội nghị diễn ra, tôi đã có bài báo cáo thành công hơn mức kỳ vọng. GS. Gamborg có nói là tôi đã báo cáo tốt nhằm động viên tôi, nhưng bản thân tôi cảm thấy rằng mình vẫn phải cần học hỏi thêm rất nhiều điều về câu chuyện mới mẻ này. Cũng tại Hội nghị này, tôi cũng được GS. Gamborg giới thiệu với Đại diện nhà xuất bản Kluwer Academic Publishers (nay là nhà xuất bản Springer) và Ông giới thiệu với nhà xuất bản về việc tôi mong muốn xuất bản một cuốn sách về kỹ thuật nuôi cấy lớp mỏng tế bào (xem thêm bài viết về GS.TS. K. Trần Thanh Vân) và tôi đã có cơ hội trao đổi với họ. Đó cũng là tiền đề mà sau này tôi có cơ hội ký hợp đồng và cho ra đời cuốn sách chuyên khảo được in trên nhà xuất bản quốc tế có tiếng đầu tiên trong cuộc đời của mình.
Kết thúc Hội nghị, như đã bàn luận trước đây, Ông đã dành cho tôi 3 ngày để giới thiệu thêm về thành phố nơi mà Ông đang sinh sống, chúng tôi di chuyển bằng xe của Ông qua 1.500 km và trong chuyến đi đó, GS. Gamborg đã chia sẻ một bài học sâu sắc đã khắc sâu trong tôi kể từ đó “không bao giờ nói không bao giờ (Never say never)”. Điều đó xuất phát từ một câu chuyện có thật giữa Ông và nhà khoa học nổi tiếng thế giới GS.TS. Edward C. Cocking (người Anh), khi có ai đó cùng thời nói với Ông về GS.TS. Edward C. Cocking là người đầu tiên dung hợp được tế bào trần thực vật để tạo ra giống cây trồng mới (A Method for the Isolation of Plant Protoplasts and Vacuoles, Nature 187 trang 962–963, 1960), thì GS. Gamborg không tin đó sự thật nhưng đến năm 1973, tại thành phố Versailles (Pháp) Ông thật sự ngỡ ngàng khi điều đó là sự thật. Câu chuyện này đã làm cho GS. Gamborg tỉnh ngộ và đi đến thừa nhận người đồng nghiệp của mình trong cuốn hồi ký, Ông nói “không bao giờ nói không bao giờ”, tức là trên đời này điều gì cũng có thể xảy ra.
Sau chặng đường dài khoảng 700 km, khi trời bắt đầu tối, tôi và GS. Gamborg quyết định dừng lại và nghỉ qua đêm tại ngôi làng Solvang, một ngôi làng ở hạt Santa Barbara tại tiểu bang California, nổi tiếng với kiến trúc và văn hóa đậm chất Đan Mạch. Chúng tôi đã nghỉ qua đêm ở đây và nơi đây như là quê hương thứ 2 của Ông trên đất Mỹ.

Ông nhiệt tình kể về văn hóa và lịch sử hình thành của ngôi làng độc đáo này, cũng như nói về lịch sử của đất nước Đan Mạch cho tôi nghe. Theo lời kể của Ông, làng Solvang được thành lập vào năm 1911 bởi một nhóm người Đan Mạch nhằm gìn giữ văn hóa và truyền thống của quê hương. Đặc điểm nổi bật của làng Solvang là kiến trúc với những ngôi nhà có phong cách kiến trúc truyền thống của Đan Mạch, với mái nhọn, cửa sổ và cửa ra vào được trang trí tỉ mỉ. Bên cạnh đó, nét văn hóa của người dân nơi đây là tổ chức nhiều lễ hội và sự kiện mang đậm bản sắc văn hóa Đan Mạch, chẳng hạn như lễ hội Midsummer và lễ hội Noel. Ẩm thực nổi tiếng tại đây là các món ăn truyền thống của Đan Mạch, như bánh mì Danish Pastry, thịt hun khói và cá. Làng có nhiều địa điểm tham quan hấp dẫn, như Bảo tàng Solvang, nhà truyền giáo Santa Inés và những con đường nhỏ xinh xắn. Ngày nay làng Solvang vẫn duy trì được nét đặc trưng văn hóa Đan Mạch và thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới. Tôi thấy Ông rất hạnh phúc khi kể với tôi về vấn đề này.
Ngoài ra, Ông còn kể cho tôi nghe về nỗi khổ cực của người dân mất nước trong thời Phát xít Đức chiếm đóng Đan Mạch trong thế chiến thứ II mà Ông cũng là nạn nhân của cuộc chiến tranh vô nghĩa này. Vào đầu Thế chiến II (tháng 9 năm 1939), Đan Mạch tuyên bố mình trung lập, nhưng sự trung lập đó không ngăn được Đức Quốc xã chiếm đóng đất nước ngay sau khi chiến tranh bùng nổ; sự chiếm đóng kéo dài cho đến khi Đức bị đánh bại. Vào ngày 9 tháng 4 năm 1940, Đức chiếm đóng Đan Mạch trong Chiến dịch Weserübung, nhưng cuối cùng đã được giải phóng bởi lực lượng Đồng minh Anh vào năm 1945, sau đó Đan Mạch gia nhập Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên những mất mát mà chiến tranh mang lại cho Ông và người dân Đan Mạch là vô cùng lớn, Ông kể cho tôi nghe Ông đã phải tha phương cầu thực ra sao, đây cũng là lý do vì sao Ông đã chuyển qua Canada để học tập và làm việc rồi sang Mỹ để định cư. Tôi cũng chia sẻ với Ông về sự thống khổ của người Việt Nam qua 2 cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, Ông nói Ông hiểu rất rõ về điều đó và luôn đánh giá cao về sự kiên cường, anh hùng, bất khuất của người dân Việt Nam trong 2 cuộc chiến tranh này và cũng có thể Ông giúp tôi nhiều điều như vậy cũng vì sự đồng cảm đặc biệt này. Sau đó, chúng tôi dành thời gian thưởng thức các món ăn Đan Mạch và tham quan các kiến trúc đặc biệt tại ngôi làng này. Tôi thấy thật sự hạnh phúc vì có cơ hội đến tham quan và trải nghiệm quê hương yêu dấu của Ông ngay trên đất Mỹ. Sáng dậy chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình và đi qua những nơi Ông từng làm việc. Tối đến, Ông chọn cho tôi 1 khách sạn nhỏ để ở qua đêm, thời đó người Mỹ vẫn còn có chút phân biệt đối xử, tôi nhớ khi làm thủ tục nhận phòng, một cô phục vụ nói tôi phải đưa Passport và muốn giữ nó vì có chút hoài nghi gì đó về một người đến từ một đất nước không phát triển. Chính vì vậy, người phục vụ muốn giữ Passport của tôi nhưng GS. Gamborg có nói không được làm như vậy mà chỉ được copy Passport của tôi thôi, hai bên đã xảy ra tranh luận… tôi chỉ nhớ là Ông nói với người phục vụ là tại sao phân biệt đối xử và tại sao những người nước khác thì không bị giữ passport. Chính tại khách sạn nhỏ đó, giữa một thủ tục nhận phòng dường như bình thường, sự cam kết không lay chuyển của GS. Gamborg đối với sự bình đẳng đã tỏa sáng. Lập trường đầy nguyên tắc của Ông chống lại các hành vi phân biệt đối xử, đòi hỏi sự công bằng cho một người đến từ một quốc gia đang phát triển, đã khiến tôi vô cùng xúc động và nhấn mạnh ý thức công lý sâu sắc của Ông. Tối hôm đó tôi nghĩ suốt về chuyện đã xảy ra và mong cho trời sáng để tiếp tục trải nghiệm những điểm tham quan khác, tôi nhớ khi đến cầu vàng “Golden Bridge”, Ông còn chụp ảnh cho tôi bằng máy cơ, gió rất mạnh nên cầu bị rung lắc nên ảnh không được rõ nét, nhưng lúc đó đối với tôi đó là cây cầu treo hiện đại nhất thời bấy giờ… Sau đó, chúng tôi tiếp tục tham quan University of California – Davis nơi Ông đã làm việc… và cuối cùng là những trạm dừng chân ăn uống thưởng ngoạn với sự chăm sóc chu đáo về mọi thứ bằng sự yêu thương và bảo bọc bởi lẽ tôi cũng đến từ một đất nước nghèo thời bấy giờ. Kết thúc cuộc hành trình du ngoạn trên nước Mỹ, Ông tiễn tôi ra sân bay với niềm xúc động bồi hồi vì tôi không biết khi nào mới có cơ hội gặp lại Ông. Rời nước Mỹ lần đầu tiên với nhiều kỷ niệm đẹp.

Sau khi trở về Nhật Bản, tôi tiếp tục học tập, nghiên cứu và thường xuyên trao đổi với GS. Gamborg qua email, điện thoại và thư tay. Đặc biệt là sự hỗ trợ, giúp đỡ của GS. Gamborg trong việc đọc và chỉnh sửa các chương sách của cuốn sách “Thin Cell Layer Culture System: Regeneration and Transformation Application” được xuất bản trên nhà in Springer, dù lúc đó sức khỏe của Ông đã không còn tốt. Sau khi hoàn thành luận án Tiến sĩ tại Nhật Bản, tôi quay về Việt Nam để tiếp tục con đường nghiên cứu khoa học của mình. GS. Gamborg là người mà tôi luôn hỏi ý kiến cho những quyết định của mình trong khoa học. Từ năm 2002 đến năm 2007, tôi vẫn thường xuyên gọi điện thoại và gửi email thăm hỏi sức khỏe của Ông. Nhưng thật bất ngờ, vào năm 2007 tôi được biết tin Ông đã qua đời từ GS.TS. Trevor A. Thorpe. Lúc đó, bản thân tôi vô cùng bàng hoàng và cảm thấy trống vắng với sự ra đi của người ân nhân. Sự ra đi của GS. Gamborg đã để lại người vợ yêu dấu của mình, Bà Gertrude và 3 đứa con, Brian, Cheryl và Linda cũng như 7 đứa cháu hết mực yêu thương Ông. Ngoài ra, tại quê nhà Đan Mạch, Ông còn để lại người anh trai Svend Gamborg. Tôi rất buồn và không biết chia sẻ sự mất mát này cùng ai.
Tạp chí Plant Cell Reports đăng một bài thể hiện niềm thương tiếc về sự ra đi của GS. Oluf L. Gamborg vào ngày 28 tháng 5 năm 2007 với nội dung “GS. Gamborg là một nhà khoa học lỗi lạc, Ông đã có ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực nuôi cấy tế bào và cơ quan thực vật – hầu hết các nhà khoa học đều sử dụng công thức vitamin B5 nổi tiếng của Ông gần như mỗi ngày”.
Trong cáo phó, GS. Trevor A. Thorpe (Thorpe TA, 2007. In memoriam: Oluf L. Gamborg. Plant Cell Reports, 26: 1513–1514) mô tả nhiều cột mốc quan trọng trong cuộc đời của GS. Gamborg và những thành tựu khoa học của Ông: “Với sự ra đi của GS. Gamborg, chúng ta đã mất đi một nhà khoa học vĩ đại, người đã có những đóng góp đáng kể và lâu dài cho công nghệ nuôi cấy mô thực vật hiện đại”.
Quay lại từ năm 1993 tới nay, tôi mới đặt bút viết lại những kỷ niệm về một con người trong bóng tối đã đồng hành cùng tôi trong những ngày đầu làm khoa học. Gửi đến Ông, GS. Gamborg vừa là một người Thầy, một người cha và một người đồng nghiệp đáng kính của tôi những kỷ niệm mà chúng tôi đã có với nhau trong suốt 14 năm đồng hành trong sự nghiệp khoa học.
Đối với việc nói lời cám ơn với GS. Gamborg là hơi muộn vì Ông đã ra đi gần 18 năm nhưng trong chuỗi sự kiện Vinh danh các nhà khoa học gắn bó với sự nghiệp khoa học của tôi, bản thân tôi muốn dành cho Ông lời tri ân này và hy vọng ở thế giới bên kia Ông luôn dõi theo và ủng hộ tinh thần cho tôi như Ông đã từng nói “Ở Việt Nam có bao nhiêu người tử tế như mày, mày cứ làm việc hết lòng cho khoa học và lợi ích cho mọi người thì Chúa sẽ phù hộ mày”. Được biết GS. Gamborg theo đạo Công giáo và Ông nói Ông rất hay đi nhà thờ và làm nhiều việc có ích ở đó, cảm ơn Ông tôi luôn khắc ghi và nhớ mãi.